Tâm tĩnh như nước là cảnh giới tinh thần cao thượng trong nhân sinh quan cuộc sống
Thường ngày con người ta hay nóng vội, bởi vì một chút việc nhỏ mà nổi trận lôi đình, hoặc bởi một câu nói không hợp ý mà buông lời nhục mạ. Nhưng một vài người khác thì mỗi ngày đều dùng tâm thái bình tĩnh để xử lý vấn đề, không sợ hãi trước vinh nhục. Đó là bởi họ giữ được “tâm tĩnh như nước”.
Một người bình thường khi bị suy sụp sẽ cảm thấy thất vọng, khi bị thương tổn sẽ cảm thấy thống khổ, khi bị phỉ báng sẽ cảm thấy ủy khuất, khi bị hấp dẫn bởi cám dỗ sẽ cảm thấy lưỡng lự, khi bị phản bội sẽ cảm thấy căm phẫn, khi đứng trước khảo nghiệm sinh tử sẽ cảm thấy sợ hãi vô cùng. Đây đều là biểu hiện của định lực không cao và cũng là kết quả của việc tu dưỡng chưa đủ.
Trong cuộc sống không ngừng phân tranh, rất nhiều người tinh thần không yên tĩnh, tâm thần không an định, đây đều là vì họ đặt nặng bản thân mình. Cũng có một số ít người ở tuổi trung niên, khi tiếp xúc thì cảm thấy họ ít đặt nặng được mất, có thể thản nhiên trước rất nhiều điều. Kỳ thực là trải qua những năm tháng cuộc đời, người ta bắt đầu hiểu ra rằng xem nặng danh lợi chỉ khiến tâm linh thêm mệt mỏi. Tuy nhiên cách suy nghĩ này về cơ bản vẫn chỉ là lẩn tránh mà không phải là thực sự thản nhiên. Nếu có thể thản nhiên xem nhẹ thì đó là một loại phẩm cách, một loại hạnh phúc, một loại khoan dung độ lượng và là cảnh giới tinh thần cao thượng.
Một người muốn tĩnh tâm như nước thì điểm mấu chốt là có thể bỏ qua được những phiền não về danh lợi, vứt bỏ được những quấy nhiễu của tình sắc, chính là phải biết buông bỏ. Có câu nói rất hay rằng: “Con người sống đều là đang vác nặng mà tiến về phía trước”. Con người khi đến một độ tuổi nhất định cần phải học được cách buông bỏ những gì cần buông bỏ và giữ lấy những gì nên quý trọng. Người chân chính hiểu được ý nghĩa sinh mệnh, ý nghĩa nhân sinh sẽ không bị những “vật ngoại thân”, những việc nơi cuộc sống đời thường làm khó khăn, phiền não.
Có một đoạn thời gian, Khổng Tử cùng các học trò của mình bị vây khốn, gặp phải nguy nan, còn bị cạn lương thực. Lúc ấy, các học trò đều mang vẻ mặt rất rầu rĩ, thất vọng, nhưng Khổng Tử vẫn giữ được tâm thái bình tĩnh, không một chút hoang mang lo sợ mà ca hát, soạn nhạc. Ông nói: “Người quân tử yêu thích âm nhạc chính là vì ở trong âm nhạc mà bình tĩnh tâm tính, hồi tưởng lại chuyện lúc xưa, tự hướng lại bản thân mà kiểm điểm chính mình, xóa bỏ đi tính khí kiêu ngạo.”
Lão Tử giảng “Thượng thiện nhược thủy”, thiện cao nhất là giống như nước. Khổng Tử lại giảng: “Tri giả nhạc thủy, nhân giả nhạc sơn”, người trí tuệ thích nước, người nhân từ thích núi. Bậc trí tuệ thì tâm thiện, đem lại lợi ích cho muôn vật mà không tranh không giành. Bậc nhân đức thì tĩnh lặng, nguy nga, không dục vọng giống như núi cao muôn trượng sừng sững ngàn năm. Cho nên người trí tuệ sống được an tĩnh, người nhân đức sống được lâu dài.
Thành công khiến con người vui sướng tựa như sự mãnh liệt của hải triều. Nhưng hải triều lên rồi cũng tự nhiên xuống, cuộc sống thành bại đan xen, được mất vô cùng, tâm người nếu vui buồn theo hải triều thì sẽ mệt mỏi không nguôi. Cho nên, tâm tĩnh như nước mới là cảnh giới tinh thần cao thượng trong cuộc đời.
Trong “Tam quốc diễn nghĩa”, quân Thục bị thất thủ ở Nhai Đình, Gia Cát Lượng lại nghe được tin Tư Mã Ý dẫn theo mười lăm vạn đại quân tấn công Tây Thành. Trong tay Gia Cát Lượng lúc ấy chỉ có vẻn vẹn 2.500 quân lính giữ thành, nhưng tâm ông không hoảng loạn, mà bình tĩnh cho mở cửa thành, dẫn hai tiểu đồng cầm đàn, ở trên lan can trong thành ngồi gảy.
Tư Mã Ý dẫn quân kéo đến Tây Thành, thấy tình cảnh như vậy lấy làm lạ, đăm chiêu nghe Gia Cát Lượng gảy đàn một lúc, rồi hạ lệnh cho quân nhanh chóng tháo lui. Đó là bởi vì thông qua âm nhạc, Tư Mã Ý có thể cảm giác được tinh thần của Gia Cát Lượng. Tiếng đàn “bình tĩnh bất loạn” của Gia Cát Lượng đã hù dọa được Tư Mã Ý thoái lui, có thể gọi là “núi Thái Sơn sụp đổ ngay trước mắt mà sắc mặt không thay đổi, con nai có nhảy múa bên cạnh thì mắt vẫn không liếc”.
Mặc dù đây là tiểu thuyết lịch sử, nhưng cũng nói lên được tâm cảnh cao thượng khi đứng trước sinh tử. Khí độ siêu phàm như vậy, một người bình thường tất nhiên không thể làm được.
Người đạt đến cảnh giới tĩnh tâm như nước thì gặp chuyện không hoảng hốt, lâm nguy không sợ hãi, lấy mỉm cười để đối đãi với lời phỉ báng, lấy từ bi đối đãi với phản bội, gặp biến cố có thể thong dong. Tâm bình khí hòa, tâm tính ổn định mới có thể không vì được mà vui, không vì mất mà buồn, vô cớ bị nhục mạ mà không phẫn nộ, đứng trước gian nguy mà không sợ hãi. Khi đối mặt với những lên xuống, những mừng vui và bi thương của cuộc đời thì có thể thản nhiên ứng đối bằng chính nghĩa và sự công minh.
Một người có thể tu dưỡng đến mức “tâm tĩnh như nước” thì cảnh giới nội tâm của họ đã phi thường thuần tịnh, nhân phẩm cũng trở nên thần thánh và cao thượng. Khi tâm của một người như mặt hồ phẳng lặng, thì năng lượng từ bi của họ sẽ bao phủ lên vạn sự vạn vật xung quanh, thế giới tinh thần của người ấy cũng sẽ nở ra những đóa hoa sen tinh khiết và rực rỡ.